Đường lối ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng vào thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
Đường lối ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự vận dụng những tư tưởng biện chứng vào thực tiễn, thể hiện được cốt cách, tinh thần dân tộc với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Đây là tư tưởng ngoại giao khéo léo, linh hoạt và đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được Đảng và Nhà nước ta vận dụng trong thực tiễn hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bí thư thứ nhất Lê Duẩn dự Đại hội lần thứ XXII của Đảng Cộng sản Liên Xô, năm 1961 _Ảnh: TTXVN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối ngoại giao là toàn bộ tư tưởng, quan điểm, nội dung được kết tinh từ quá trình học tập, rèn luyện và tu dưỡng của Người trong thực tiễn, không khô cứng, máy móc mà luôn vận động, biến đổi cho phù hợp với từng thời điểm lịch sử - cụ thể. Dù có biến đổi hay linh động ra sao thì “dĩ bất biến, ứng vạn biến” luôn phải được chú trọng, lợi ích quốc gia, dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ vẫn phải đặt lên hàng đầu và không được nhượng bộ, độc lập dân tộc là cái bất di bất dịch.
Ngày 3/10/1945, Hồ Chí Minh đã đưa ra Thông cáo về “Chính sách ngoại giao của Chính phủ lâm thời”, trong đó Hồ Chí Minh nêu rõ chính sách ngoại giao của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Đưa nước nhà đến độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn, và góp phần cùng các nước Đồng minh chống phát xít, trên cơ sở các nguyên tắc dân chủ được các liệt quốc thừa nhận, xây đắp lại nền hòa bình thế giới”; “Với các nước nhược tiểu dân tộc trên toàn cầu, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng thân thiện, hợp tác chặt chẽ trên nguyên tắc bình đẳng để ủng hộ lẫn nhau trong xây dựng và giữ vững nền độc lập”. Có thể thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt độc lập dân tộc là ưu tiên số một để từ đó là tiền đề cho các vấn đề giao lưu, hợp tác với các quốc gia, dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới.
Sáng ngày 31/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Hà Nội đến Pháp để mở ra cuộc đàm phán chính thức với Chính phủ Pháp nhằm níu giữ nền hoà bình đứng trước nguy cơ đổ vỡ. Trước khi đi, Người đã nắm tay cụ Huỳnh Thúc Kháng và dặn lại “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở cụ cùng với anh em giải quyết cho. Mong cụ “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Khác với những tư tưởng của các quốc gia đi theo con đường xã hội chủ nghĩa ở thế kỷ XX cho rằng tư bản hay phương tây là xấu và cần phải loại bỏ, Người từng nói: “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hoá Việt Nam. Có tinh thần thuần túy Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ”. Bởi vậy, đường lối ngoại giao của Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở kế thừa, học tập nghiên cứu chắt lọc tinh hoa của lịch sử nhân loại tiến bộ.
Nhờ vận dụng tư tưởng biện chứng vào đường lối ngoại giao của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gắn kết được tình cảm giữa Việt Nam với các nước, đặc biệt là các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa và các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới.
Trong Bản Di chúc lịch sử, Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta phải đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh; góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Đến khi về cõi của người hiền triết, Người vẫn luôn nghĩ đến dân tộc, đến sự nghiệp cách mạng thế giới và bạn bè năm châu, coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng của các dân tộc bị áp bức, yêu chuộng hoà bình.
Đại hội Đảng lần thứ VII Đảng ta đã có sự thay đổi nhận thức, tư duy đối ngoại: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Đại hội Đảng lần VIII, Đảng ta nhấn mạnh đã thoát khỏi khủng hoảng, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là cơ sở lý luận và cũng là cơ sở thực tiễn để Đảng ta xây dựng con đường lối ngoại giao trong các giai đoạn tiếp theo”. Ngoại giao Hồ Chí Minh đã mang đến một chân lý bất hủ “biết mình biết người, biết dừng biết biến, biết thời biết thế”.
Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “Phát triển công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả. Tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế- xã hội.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc; vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Đường lối ngoại giao của Hồ Chí Minh mang đến cho dân tộc ta cách quan sát, xem xét và nhận định các giai đoạn của thời cuộc, nhận biết được đường hướng cụ thể và đưa ra những sách lược hợp lý có lợi cho quốc gia. Chúng ta học tập và noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phải nhận thức được thời đại mình đang sống một cách thật sâu rộng, chỉ có như vậy mới nắm bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại, dự đoán được tương lai”. Chúng ta có thể hiểu rằng, ngoại giao cần nắm chắc mối quan hệ biện chứng giữa “lực, thế và thời” để nghiên cứu và tiên đoán các vấn đề diễn ra trên toàn khu vực và quốc tế nhằm có thể hỗ trợ mạnh mẽ cho Đảng ta về những sách lược, đường hướng phù hợp trước tình hình mới.
Trong những biến động của thời đại hiện nay, vận dụng tư tưởng biện chứng trong đường lối ngoại giao của Người về độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa là điều “bất biến”; Quan điểm “Không có gì quý hơn độc lập tự do” luôn nhất quan trên mọi mặt trận của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nguyên tắc “độc lập, tự chủ, tự cường phát huy nội lực”, với tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh được thể hiện mọi đường lối, chủ trương cho sự phát triển đất nước, đặc biệt là hội nhập quốc tế với lộ trình sao cho phù hợp với tình hình của đất nước qua từng giai đoạn. Muốn đổi đổi mới để hội nhập quốc tế nhưng vẫn giữ vững mục tiêu “bất biến” chúng ta cần vận dụng “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác - Lênin là phương pháp làm việc biện chứng, quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng dĩ bất biến, ứng vạn biến, lý luận gắn liền với thực tiễn, giải quyết những xung đột mâu thuẫn xã hội chính là giải quyết đúng đắn lợi ích giữa mối quan hệ dân tộc và giai cấp, dân tộc và thời đại, để tạo thế và lực mới, nắm bắt thời cơ vận hội mới cho sự phát triển bền vững của đất nước”.
Hội nghị đối ngoại toàn quốc ngày 14/12/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát và nhận định: “Chúng ta đã xây dựng nên trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh. Đây là trường phái riêng”. Tổng Bí thư đã ví ngoại giao Việt Nam là “ngoại giao cây tre”: “Thân gầy guộc, lá mong manh/Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi”. Có thể thấy rằng, đây là sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong đường lối ngoại giao của Đảng ta trong tình hình hiện nay trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những tinh hoa ngoại giao của dân tộc, của thời đại và ngoại giao Hồ Chí Minh.
Tại cuộc họp báo của Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng khóa XIII ngày 3/8/2024, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khẳng định: Đường lối chung của Đảng cộng sản Việt Nam, nhất là Nghị quyết Đại hội XIII, trong đó có đường lối đối ngoại không có gì thay đổi.
Việt Nam kiên định, kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Ưu tiên đối ngoại của Việt Nam trong thời gian tới gồm 5 vấn đề. Trước hết là giữ vững quan điểm độc lập tự chủ, độc lập tự cường, lợi ích quốc gia dân tộc là trên hết, trước hết. Việt Nam làm bạn với các nước trên thế giới vì truyền thống của Việt Nam là "giàu vì bạn", muốn phát triển phải đoàn kết để tăng thêm sức mạnh.
Việt Nam sẽ tiếp tục đẩy mạnh quan hệ với các nước láng giềng, nước lớn, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, bạn bè truyền thống và các đối tác quan trọng khác đi vào chiều sâu, thực chất, không ngừng củng cố tin cậy chính trị, đan xen lợi ích; củng cố cục diện đối ngoại ổn định, hòa bình và tạo thuận lợi cao nhất cho phát triển đất nước.
Chúng ta cũng tăng cường đóng góp trong duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới, tiếp tục nâng tầm ngoại giao đa phương, phát huy vai trò thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; thực hiện hiệu quả ngoại giao thời đại mới trên cơ sở cốt cách con người Việt Nam "dĩ bất biến, ứng vạn biến", "hòa hiếu", "lấy chí nhân thay cường bạo".
Bên cạnh đó, chúng ta cũng phát huy cao độ vai trò của đối ngoại, huy động cao nhất sức mạnh thời đại góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa, thực hiện thành công đường lối đổi mới, hai mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng và 100 năm thành lập nước.
Nền ngoại giao hiện đại sẽ được xây dựng, kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, trong đó đối ngoại Đảng đóng vai trò định hướng, dẫn dắt; đối ngoại nhân dân củng cố vững chắc nền tảng dân ý.
Năm ưu tiên này chính là sự vận dụng, kế thừa và phát triển tư tưởng biện chứng trong đường lối ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, đồng thời cũng chứng minh được tư tưởng về đường lối ngoại giao của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh thể hiện sự nhất quán trong đường lối lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước và là vấn đề rất cấp thiết trong tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay./.
Anh Ngọc (tổng hợp)